namoamitabhabuddhatheky21

Saturday, February 10, 2007

Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (The Inquisition)]

NHỮNG THIÊN CHÚA [THE GODS]
Robert Green Ingersoll (1872) - (Trần Chung Ngọc trích dịch)
đăng ngày 08/02/2007

Lời Nói Đầu.- Sau đây là một bài viết của Robert G. Ingersoll về đề tài “Những Thiên Chúa” cách đây đã trên một thế kỷ, năm 1872. Tuy rằng viết về “Những Thiên Chúa” nhưng phần lớn những điều ông viết là về thiên chúa của Ki Tô Giáo trong cuốn Thánh Kinh. Người nào đã đọc hay nghiên cứu cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo rất dễ nhận ra điều này. Do đó, tôi sẽ thêm vào bài những ghi chú ngắn trong dấu ngoặc […].

Robert G. Ingersoll là một nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông ta mang cấp bậc Đại Tá trong cuộc nội chiến, và sau đó làm Chưởng Lý (Attorney General), bang Illinois. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do (freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ, là chiến sĩ tiền phong trong chủ trương giải phóng đầu óc con người khỏi những cùm xích của vô minh và mê tín của Ki Tô Giáo (free men’s minds from the shackles of ignorance and Christian superstition), dấn thân vào công cuộc giải hoặc Ki Tô ngay từ cuối thế kỷ 19, khi mà các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo còn nhiều quyền thế trên nước Mỹ. Ngày nay, tượng kỷ niệm vinh danh Ingersoll hiện còn ở Periora, Illinois. Vì bài “Những thiên chúa” của Ingersoll khá dài nên tôi xin chia ra làm hai phần, sau khi lược bớt một số đoạn mà tôi cho rằng khá nặng về triết lý. Sau đây là Phần I.

*

Những Thiên Chúa

(Phần I)

Mỗi quốc gia đều tạo ra một thiên chúa, và thiên chúa đó bao giờ cũng giống những người đã tạo ra ông ta. Ông ta yêu và ghét những gì mà những người tạo ra ông ta yêu và ghét, và luôn luôn chúng ta thấy ông ta về phe những người đang nắm quyền lực. Mọi thiên chúa đều rất yêu nước, và thù ghét mọi nước khác trừ nước của ông ta. Tất cả những thiên chúa như vậy đều đòi hỏi phải được ca tụng, tâng bốc, và thờ phụng. Hầu hết những thiên chúa đều hài lòng với lễ tế thần, và mùi máu của người vô tội tự bao giờ vẫn được coi như mùi dầu thơm của thiên chúa. [Mục sư Deacon Fred ở New York đã chẳng giảng cho các tín đồ trong dịp lễ Haloween vừa qua: Jesus sẽ vui mừng đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít hà lên mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. (Jesus would weep tears of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a witch this Halloween.)] Mọi thiên chúa như vậy đều dựa vào một số lớn các linh mục, mục sư và các linh mục, mục sư đó luôn luôn đòi hỏi phải được quần chúng ủng hộ, và thương vụ chính của các linh mục, mục sư đó là khoa trương về thiên chúa của họ, và nhấn mạnh là thiên chúa này có thể dẹp bỏ mọi thiên chúa khác họp lại. Những thiên chúa này đã được sản xuất ra theo vô số mô hình, và theo những kiểu cách thô thiển nhất. Hầu hết những thiên chúa này đều có tâm thù hận, bạo tàn, đầy khát vọng, và ngu dốt [Đặc biệt là thiên chúa trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo]. Vì thường thường là các thiên chúa này tùy thuộc vào những thông tin của các linh mục, mục sư [nói về các thiên chúa] cho nên sự ngu dốt của các thiên chúa khó có thể làm cho chúng ta ngạc nhiên. [Vì chúng ta đã biết: sự ngu dốt của thiên chúa chính là sự ngu dốt của các linh mục, mục sư].

Những thiên chúa này không biết ngay cả hình dạng những thế giới mà ông ta sáng tạo ra, nhưng cho rằng chúng hoàn toàn phẳng lỳ. [Đây là thế giới mà thiên chúa của Ki Tô giáo “sáng tạo” hay “thiết kế thông minh” ra như được viết trong Kinh Thánh của Ki Tô Giáo] Có ông nghĩ rằng có thể làm cho ngày dài ra bằng cách làm cho mặt trời đứng yên [Đây là đoạn Joshua 10:12-13 trong Thánh Kinh, nói về chuyện Joshua xin thiên chúa làm cho mặt trời ngưng lại một ngày để có ánh sáng giúp cho Joshua giết thêm, tận diệt kẻ thù và thiên chúa Jehovah đã đáp ứng, làm theo lời xin của Joshua], rằng thổi tù và có thể làm sập những bức tường thành, và tất cả đều biết rất ít về bản chất của con người mà các chính mình đã sáng tạo ra, và rằng đòi hỏi con người phải yêu mến mình. Có ông ngu đần đến độ cho rằng những con người [sáng suốt] có thể tin vào những gì mà ông ta ham muốn, hay là ông ta ra lệnh [Do đó, chỉ có những người đầu óc ngu đần như ông thiên chúa này mới có thể tin vào những gì mà ông ta ham muốn, hay là ông ta ra lệnh. Vì thực ra là, như Voltaire đã từng nói: “Ý của thiên chúa là ý của các linh mục, tin vào thiên chúa là tin vào mọi điều các linh mục bảo chúng ta tin” (The will of god is the will of the priests, to believe in god is to believe in all that the priests tell us)], và rằng những gì thâu thập được qua sự quan sát, qua lý trí và kinh nghiệm, là điên rồ nhất và là tội lỗi đáng đầy đọa. Không có một ông thiên chúa nào có thể kể ra một câu chuyện thật về sự sinh ra của thế giới nhỏ nhoi này. Tất cả đều thiếu hiểu biết một cách tồi tệ về địa chất học và thiên văn học. Như là một quy luật, tất cả các thiên chúa đều là những nhà lập pháp [đặt ra luật lệ], nhưng là những nhà hành pháp [thi hành luật], tất cả đều kém xa một ông Tổng Thống trung bình của Hoa Kỳ.

Những thiên chúa này đã đòi hỏi ở con người một sự tuân phục đê tiện và thấp hèn nhất. Để làm vui lòng chúng, con người phải úp mặt xuống đất. Lẽ dĩ nhiên, chúng bao giờ cũng thiên vị dân tộc đã tạo ra chúng, và thường chứng tỏ sự thiên vị này bằng cách giúp những dân này đi cướp bóc và hủy diệt các dân tộc khác, và cưỡng hiếp vợ con họ. Không có gì làm vui lòng những thiên chúa này là sự giết chóc những người không tin. Không có gì làm những thiên chúa này giận dữ hơn, ngay cả cho tới ngày nay, là có người nào đó phủ nhận sự hiện hữu của chúng. [Tất cả những điều này đều có trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, và các tín đồ Ki Tô Giáo đã giết chóc những người không tin để làm vui lòng thiên chúa, hay cho sự vinh quang của thiên chúa (for the glory of God) của họ như lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng minh, đặc biệt là về những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo (The Inquisition)]

Có vài quốc gia nghèo nàn đến độ chỉ có một thiên chúa. [Ki Tô Giáo thường nhồi sọ các trẻ em trong các viện mồ côi, trong các lớp học giáo lý ngày chủ nhật: “Chỉ có một thiên chúa: thiên chúa của chúng ta ” (Our god is the only god)]. Những thiên chúa được làm ra quá dễ dàng, với nguyên liệu chẳng tốn kém là bao, do đó thường thì thị trường thiên chúa khá thừa thãi, và thiên đường thì chen chúc đầy những hồn ma. Những thiên chúa này không những lo việc trên trời, mà người ta cho rằng còn can thiệp vào mọi việc của con người. Chúng ngự trị trên mọi người và mọi thứ. Chúng lo mọi việc trong mọi lãnh vực. Tất cả đều cho rằng ở dưới quyền kiểm soát trực tiếp của chúng. Không có gì quá nhỏ -- Không có gì quá lớn. Sự hạ cánh của các con chim sẻ và chuyển động của các hành tinh đều được chăm sóc giống nhau bởi các thần linh xiêng năng quan sát. Từ những ngai trên trời chúng thường hay xuống trái đất với mục đích đem lại thông tin cho con người. Người ta kể về một thiên chúa xuống cùng với sấm sét…

Khi con người không chịu thờ phụng một trong những thiên chúa này, hay không chịu chu cấp ăn mặc cho những linh mục, mục sư của ông ta (thiên chúa, linh mục, mục sư hầu như cùng là một thứ) hắn thường thăm viếng con người với bệnh dịch và nạn đói. Đôi khi hắn cho phép một quốc gia nào đó kéo người dân vào vòng nô lệ -- họ phải bán vợ đợ con; nhưng thường là hắn trả thù bằng cách giết những đứa con đầu lòng của họ. [Đây là hành động của thiên chúa của Ki Tô Giáo trừng phạt dân của Pharaoh, vua Ai Cập, vì Pharaoh không thả dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ.] Những linh mục, mục sư luôn luôn làm đầy đủ nhiệm vụ, không chỉ tiên đoán những thiên tai này, mà còn chứng minh rằng, những thiên tai xảy ra là vì người dân không chịu chu cấp đầy đủ cho họ.

Những thiên chúa này khác nhau cũng như là các quốc gia khác nhau; những quốc gia lớn mạnh nhất thì có những Thiên Chúa mạnh nhất, trong khi các quốc gia yếu kém hơn thì bắt buộc phải an phận với những thứ dơ dáy phát ra từ những thiên đường. Mỗi thiên chúa này đều hứa hẹn với các nô lệ của hắn hạnh phúc trong đời này và trong đời sau, và đe dọa trừng phạt vĩnh viễn mọi người nào hoặc không tin ở sự hiện hữu của hắn [Đây chính là những điều Giêsu giảng dạy trong Tân ước] hoặc cho rằng có thế có một thiên chúa nào đó mạnh hơn hắn; nhưng phủ bác sự hiện hữu của mọi thiên chúa đã từng , và vẫn còn là tội ác của các tội ác [Do đó phải tận diệt, theo quan niệm của giáo hội Công giáo (Xin đọc về các tòa án xử dị giáo của Công Giáo)].

Làm cho hai bàn tay đẫm máu người; xuyên tạc phỉ báng tiếng tăm của người vô tội; bóp nghẹt yết hầu của đứa bé đang mỉm cười trên đùi người mẹ; lừa dối, hủy hoại và bỏ rơi người con gái đẹp đã thương yêu và tin cậy ở mình, và bản án của anh không phải là vô vọng. Dù làm tất cả những điều trên anh có thể được tha thứ [Qua bí tích xưng tội và tha tội]. Dù làm tất cả những điều trên, cái tòa án phá sản thiết lập bởi các Phúc Âm sẽ phán quyết là anh vô tội; nhưng nếu từ chối chấp nhận sự hiện hữu của những hồn ma thần thánh này, của những thiên chúa này, và bộ mặt ngọt ngào và thương cảm biểu tượng của lòng Nhân Từ trở thành xám xịt bởi sự thù hận vĩnh viễn. Cửa ngõ thiên đường bằng vàng bị đóng kín, và anh, với những lời nguyền rủa vô tận vang trong tai, với nhãn hiệu ô nhục trên mí mắt, bắt đầu đi vào sự tối tăm ảm đạm khủng khiếp của địa ngục mà không bao giờ chấm dứt – một kẻ lang thang bất tận – một kẻ bị ruồng bỏ -- một tội phạm vĩnh hằng. [Theo Tân Ước]

Một trong những thiên chúa này, và là một thiên chúa đòi hỏi sự thương yêu và sự thờ phụng của chúng ta, nếu thờ phụng chỉ là lễ tiết vô tâm, đã chỉ thị cho dân ông ta chọn những luật về chiến tranh như sau: “Khi các ngươi tiến đánh một thành thị, hãy tuyên cáo hòa bình trước. Nếu thành đó đáp ứng sự hòa bình và mở cửa thành cho các ngươi, thì mọi người trong thành sẽ nạp thuế và phục dịch các ngươi. Nếu thành đó không chịu hòa với các ngươi và chiến đấu chống các ngươi thì các ngươi phải vây hãm thành đó. Và khi Thiên Chúa của các ngươi trao thành đó vào tay các ngươi, thì các ngươi phải giết sạch đàn ông trong đó bằng lưỡi gươm. Nhưng đàn bà, trẻ con và gia súc, và tất cả mọi thứ trong thành, ngay cả những vật cướp được ở đó, các ngươi sẽ lấy làm của các ngươi, và các ngươi sẽ lấy tất cả những thứ cướp được từ kẻ thù mà Thiên Chúa đã cho các ngươi. Ngươi cũng phải làm như vậy đối với những thành thị ở xa, những thành thị không thuộc những quốc gia này. Nhưng đối với những thị trấn mà thiên chúa các ngươi đã cho các ngươi làm của thừa hưởng, các ngươi không được để cho bất cứ vật nào có hơi thở được sống sót.” [Tác giả đã lấy đoạn này trong Cựu Ước, Phục Truyền Luật Lệ Ký 20: 10-16. TCN]

Có thể nào con người quan niệm nổi một cái gì ô nhục hơn? Chúng ta có thể tin rằng những chỉ thị như vậy đã được ban ra bởi bất cứ một đấng nào ngoại trừ một tên ác ôn cùng cực? Chúng ta nên nhớ rằng quân đội nhận những huấn thị đó là đoàn quân xâm lăng. Hòa bình được đề nghị với điều kiện là dân tộc ưng thuận phải là những nô lệ của những kẻ xâm lăng; nhưng nếu người nào đủ can đảm để bảo vệ nhà cửa của mình, chiến đấu vì lòng yêu thương vợ con, thì lưỡi gươm [của kẻ xâm lăng] sẽ không chừa một ai -- ngay cả đứa trẻ còn bi bô, má lúm đồng tiền.

Và người ta đòi hỏi chúng ta phải thờ phụng một thiên chúa như vậy; phải quỳ xuống mà ca tụng là ông ta thánh thiện, nhân từ, công chính và là lòng thương yêu [Đây là những điều các tín đồ Ki Tô Giáo thường làm không chút ngượng ngùng]. Người ta đòi hỏi chúng ta phải chai cứng những tình cảm cao quý, và trà đạp dưới chân tất cả những sự từ ái trong tim. Vì chúng ta từ chối tự làm tê liệt đầu óc – từ chối trở thành những kẻ nói láo – chúng ta bị tố cáo, thù hận, bôi nhọ, tẩy chay, và chính cái tên thiên chúa đó đe dọa đầy đọa chúng ta trong ngọn lửa vĩnh hằng khi chết để cho ông ta có thể tàn bạo nắm chặt linh hồn của chúng ta. Hãy để cho người ta [những tín đồ Ki Tô Giáo] cứ việc thù hận, hãy để cho thiên chúa [của Ki Tô giáo] cứ việc đe dọa – chúng ta sẽ giáo dục chúng, và chúng ta sẽ khinh khi và coi thường, bất chấp thiên chúa của chúng.

Cuốn sách, được gọi là Thánh Kinh [của Ki Tô Giáo], chứa đầy những đoạn không kém khủng khiếp, bất công và tàn bạo. Đây là cuốn sách phải đọc trong các trường học để làm cho con em chúng ta đầy lòng thương yêu, từ ái. Đây là cuốn sách mà người ta muốn hiến pháp của chúng ta phải công nhận là cỗi nguồn của mọi quyền năng và công chính!

Người ta đòi hỏi chúng ta phải coi những đoạn kinh khủng này, những luật lệ chiến tranh ô nhục này là công chính, vì cuốn Thánh Kinh là lời của thiên chúa [như Công Giáo và Tin Lành thường dạy các tín đồ]. Thật ra là, chưa từng bao giờ có, và không thể bao giờ có một lý luận toan tính chứng tỏ sự mạc khải của bất cứ một cuốn sách nào. Thiếu bằng chứng xác thực, thiếu sự tương đồng và kinh nghiệm, đơn giản là không thể có lý luận, và nhiều nhất lý luận chỉ làm không khí lay động một cách vô ích. Khi mà chúng ta chấp nhận một cuốn sách quá thiêng liêng để có thể nghi ngờ, hoặc bàn luận về nó, thì chúng ta chính là những nô lệ tâm linh. Thật là cực kỳ vô nghĩa khi cho rằng một thiên chúa truyền thông tư tưởng cho những người thông minh, và rồi coi như là một tội ác, phải bị trừng phạt trong ngọn lửa vĩnh hằng, vì những người đó dùng sự thông minh của mình để hiều những lời của thiên chúa. Nếu chúng ta có quyền sử dụng đến lý trí, thì chắc chắn là chúng ta có quyền sử dụng cho đúng nghĩa, và không có một thiên chúa nào có quyền trừng phạt chúng ta về hành động này.

Giáo lý về hạnh phúc tương lai tùy thuộc ở lòng tin thì thật là ghê tởm. [Đây chính là giáo lý chính của Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Tin Lành]. Đó là sự ô nhục của những ô nhục. Khái niệm về đức tin nơi đấng Ki-Tô sẽ được tưởng thưởng bằng một hạnh phúc muôn đời, trong khi sự tùy thuộc vào lý trí, quan sát và kinh nghiệm thì xứng đáng bị đau khổ vĩnh viễn, thì quá vô nghĩa để cần phải phản bác, và khái niệm này chỉ tin bởi một sự pha trộn khốn khổ của sự điên rồ và ngu dốt, gọi là “đức tin”. Người nào có đầu óc có thể tin được là máu sẽ làm nguôi lòng thiên chúa? Tuy vậy, toàn thể hệ thống tôn giáo của chúng ta được đặt trên niềm tin này. Người Do Thái làm lành với Jehovah với máu của súc vật, và theo hệ thống tín ngưỡng Ki Tô Giáo, máu của Giê-su đã làm mềm lòng của thiên chúa một chút, và do đó một số nhỏ sẽ được cứu rỗi. Thật là khó hiểu làm sao mà con người có thể đồng ý với những ý tưởng khủng khiếp như vậy, và làm sao mà có người đầu óc lành lặn có thể đọc cuốn Thánh Kinh và còn tin vào giáo lý về sự mạc khải. Cuốn Thánh Kinh dù đúng hay sai cũng chẳng có gì quan trọng đối với sự tự do tâm linh của con người. Cứu rỗi qua giáo lý về nô lệ tâm linh [đức tin] thì vô giá trị. Giải thoát ra khỏi nô lệ tâm linh thì vô giá. Ngày nào mà con người còn tin là cuốn Thánh Kinh không thể sai lầm, cuốn sách đó là ông chủ của họ. Nền văn minh của thế kỷ này không phải là con đẻ của đức tin, mà là của sự không tin – kết quả của suy tư tự do.

Đối với tôi, để thuyết phục một người biết suy luận là cuốn Thánh Kinh chỉ đơn giản và thuần túy là sự phát minh của con người – sự phát minh của con người man rợ -- thì chỉ cần bảo họ hãy đọc nó. Đọc nó như mọi cuốn sách khác và suy nghĩ về nó như mọi cuốn sách khác; lột tấm băng tôn kính che mắt ra khỏi mắt; đuổi bỏ con ma sợ hãi ra khỏi trái tim; cất bỏ sự ngự trị của mê tín ra khỏi đầu óc – rồi đọc cuốn Thánh Kinh, và quý vị sẽ lấy làm lạ là có lúc quý vị đã cho rằng một đấng cực kỳ thông thái, lành thiện và tinh khiết, lại là tác giả của sự ngu dốt và tàn ác như vậy.

Ông cha chúng ta không chỉ có những xưởng làm ra thiên chúa, mà cũng còn làm ra các quỷ. Các quỷ thường là những thiên chúa (thiên thần?) sa ngã bị thất sủng. Những quỷ này thường có hảo cảm với con người. Điều này chúng ta có thể thấy trong sự kiện kỳ diệu nhất: Trong hầu hết mọi nền thần học, mọi huyền thoại và tôn giáo thờ thần, những quỷ đã có nhiều nhân tính và nhân từ hơn những thiên chúa. Không có con quỷ nào sai và ra lệnh cho một tướng thuộc hạ của mình giết trẻ con và phanh bụng phụ nữ có mang [như thiên chúa của Ki Tô Giáo trong Thánh Kinh]. Những hành động man rợ như vậy luôn luôn là lệnh của các thiên chúa lòng lành. Những bệnh dịch thường do các thiên chúa nhân từ nhất giáng xuống. Nạn đói khủng khiếp trong đó đứa trẻ đang hấp hối với bờ môi xanh xao bú người mẹ đã chết khô héo cũng là do những thiên chúa đầy tình thương yêu đưa tới. Không có một con quỷ nào đã từng bị lên án vì sự tàn bạo ác ôn như vậy.

Một trong những thiên chúa này, theo truyện kể, đã nhận chết đuối toàn thể thế giới trừ tám người [Đây là chuyện Hồng Thủy trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo]. Già, trẻ, người đẹp cũng như kẻ hèn đều bị nước biển nuốt. Chuyện này, thảm họa đáng sợ nhất mà do sự tưởng tượng ngu dốt chưa từng có của các linh mục, mục sư, lại chính là hành động, không phải của một con quỷ, mà là của một thiên chúa, người ta gọi như vậy, vậy mà con người ngu dốt vẫn tiếp tục thờ phượng cho đến tận ngày nay…

Tất cả các thiên chúa này đều đe dọa dằn vặt vĩnh viễn linh hồn những kẻ thù của chúng. Đã có một con quỷ nào đưa ra lời đe dọa đồi bại như vậy chưa? Cái hành động thấp hèn nhất được ghi về con quỷ là những điều hắn làm đối với Job và gia đình của hắn, và đó là được một trong những thiên chúa này thách đố và cho phép [Xin đọc sách Job trong Cựu Ước về chuyện Job và gia đình bị gánh những thảm trạng vô tiền khoáng hậu do Satan gây nên trong cuộc thách đố giữa thiên chúa và Satan]

Câu chuyện đầu tiên mà chúng ta nghe về quỷ là ở trong cái cuốn “thuần túy khoa học” gọi là Sáng Thế Ký [cuốn sách đầu trong Cựu Ước], và nó như sau: “Nay, con rắn thì quỷ quyệt hơn mọi thú vật ngoài đồng mà thiên chúa đã tạo ra, và nó nói với người nữ (Eve), Phải không, thiên chúa đã chẳng nói, ngươi không được ăn trái cây trong vườn hay sao? Và người nữ nói với con rắn, chúng tôi có thể ăn các trái cây trong vườn, nhưng trái của cái cây ở giữa vườn thì thiên chúa đã bảo, Ngươi không được ăn trái cây đó, và cũng không được đụng đến nó, nếu không ngươi sẽ chết. Và con quỷ nói với người nữ, Ngươi chắc chắn sẽ không chết đâu. Vì thiên chúa biết rằng ngày mà ngươi ăn trái cây đó, thì nhà ngươi sẽ mở mắt ra và nhà ngươi cũng sẽ như là thiên chúa, biết phân biệt thiện, ác. Rồi người nữ thấy trái cây coi bộ ăn ngon, nhìn lại đẹp mắt, và làm cho con người khôn ngoan, bèn hái trái cây đó ăn, và đưa cho chồng cùng ăn, và hắn ta đã ăn. ** Và thiên chúa nói là con người đã trở thành một thiên chúa như chúng ta, biết thiện biết ác, vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e rằng loài người giơ tay lên cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời chăng. Thiên chúa bèn đuổi hắn (Adam) ra khỏi vườn Địa Đàng để đi cầy cấy đất đai mà từ đó hắn được tạo ra. Vậy, thiên chúa đuổi con người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía Đông của vườn thần cherubim và một lưỡi gươm rực lửa để ngăn chận con đường đi đến cây của sự sống.”

Theo câu chuyện này thì lời hứa của con quỷ đã đúng từng điểm một, Adam và Eve không có chết, đã trở thành như các thiên chúa, biết thiện biết ác.

Câu chuyện trên chứng tỏ rằng nền giáo dục và sự hiểu biết của các thiên chúa khi đó cũng đúng như là của chúng ngày nay. Giáo hội [Công giáo] vẫn trung thành canh giữ cái cây kiến thức nguy hiểm đó, và qua mọi thời đại vẫn xử dụng quyền lực tối đa để giữ cho nhân loại không được ăn trái cây đó. [Sách lược “ngu dân dễ trị” của giáo hội là điều ai cũng biết. Ngày nay giáo hội vẫn cấm con chiên không được đi xem phim “The Da Vinci Code” hay bất cứ phim nào khác nói về vài sự thực của Giáo hội, thí dụ như “The God Who Wasn’t There”, “The Magdalene Sisters”, “The Priest” v..v.., cũng nhu cấm con chiên đọc những sách không được giáo hội chấp thuận, và mấy ông linh mục Việt Nam thì bảo các con chiên đừng có đọc sách của…Giao Điểm]

Các linh mục không ngừng nhắc lại điều sai lầm và đe dọa cũ kỹ: “Không được ăn trái cây hiểu biết đó, không được đụng đến nó, nếu không thì sẽ chết.” Từ mọi bục giảng đều phát ra cùng một lời than, phát xuất từ cùng một lòng sợ hãi: “Không được ăn trái cây kiến thức để trở thành các thiên chúa, biết thiện biết ác.” Vì lý do này mà tôn giáo ghét khoa học, đức tin thù ghét lý trí, thần học là kẻ thù tuyên thệ của triết lý, và giáo hội, với lưỡi gươm rực lửa vẫn ngăn chận và thù ghét cái cây hiểu biết, và cũng như người được coi là đấng sáng lập ra giáo hội, nguyền rủa bỉ ổi nhất những tư tưởng gia dũng cảm đã ăn trái cây hiểu biết để trở thành các thiên chúa.

Nếu câu chuyện trong Sáng Thế Ký là đúng thì có phải là chúng ta nên cám ơn con rắn này hay không? Nó là người thầy giáo đầu tiên, người đầu tiên ủng hộ sự học hỏi, kẻ thù đầu tiên của sự ngu dốt, người đầu tiên đã nói thầm vào tai con người tiếng tự do thiêng liêng, đấng sáng tạo ra cao vọng, tác giả của sự khiêm nhường, của sự tìm hiểu, nghi ngờ, nghiên cứu, của sự tiến bộ và văn minh.

Hãy cho tôi bão tố của tư duy và hành động thay vì sự yên lặng khô cứng của vô minh và đức tin! Hãy đầy tôi ra khỏi vườn Eden khi nào ông muốn; nhưng trước hết hãy để cho tôi ăn trái cây trên cái cây hiểu biết đã!

*

The Gods

By

Robert Green Ingersoll

(1872)

Each nation has created a god, and the god has always resembled his creators. He hated and loved what they hated and loved, and he was invariably found on the side of those in power. Each god was intensely patriotic, and detested all nations but his own. All these gods demanded praise, flattery, and worship. Most of them were pleased with sacrifice, and the smell of innocent blood has ever been considered a divine perfume. All these gods have insisted upon having a vast number of priests, and the priests have always insisted upon being supported by the people, and the principal business of these priests has been to boast about their god, and to insist that he could easily vanquish all the other gods put together. These gods have been manufactured after numberless models, and according to the most grotesque fashions. Most of these gods were revengeful, savage, lustful, and ignorant. As they generally depended upon their priests for information, their ignorance can hardly excite our astonishment.

These gods did not even know the shape of the worlds they had created, but supposed them perfectly flat. Some thought the day could be lengthened by stopping the sun, that the blowing of horns could throw down the walls of a city, and all knew so little of the real nature of the people they had created, that they commanded the people to love them. Some were so ignorant as to suppose that man could believe just as he might desire, or as they might command, and that to be governed by observation, reason, and experience was a most foul and damning sin. None of these gods could give a true account of the creation of this little earth. All were woefully deficient in geology and astronomy. As a rule, they were most miserable legislators, and as executives, they were far inferior to the average of American presidents.

These deities have demanded the most abject and degrading obedience. In order to please them, man must lay his very face in the dust. Of course, they have always been partial to the people who created them, and have generally shown their partiality by assisting those people to rob and destroy others, and to ravish their wives and daughters.

Nothing is so pleasing to these gods as the butchery of unbelievers. Nothing so enrages them, even now, as to have someone deny their existence.

Few nations have been so poor as to have but one god. Gods were made so easily, and the raw material cost so little, that generally the god market was fairly glutted, and heaven crammed with these phantoms. These gods not only attended to the skies, but were supposed to interfere in all the affairs of men. They presided over everybody and everything. They attended to every department. All was supposed to be under their immediate control. Nothing was too small -- nothing too large; the falling of sparrows and the motions of the planets were alike attended to by these industrious and observing deities. From their starry thrones they frequently came to earth for the purpose of imparting information to man. It is related of one that he came amid thunderings and lightnings…

When the people failed to worship one of these gods, or failed to feed and clothe his priests, (which was much the same thing,) he generally visited them with pestilence and famine. Sometimes he allowed some other nation to drag them into slavery -- to sell their wives and children; but generally he glutted his vengeance by murdering their firstborn. The priests always did their whole duty, not only in predicting these calamities, but in proving, when they did happen, that they were brought upon the people because they had not given quite enough to them.

These gods differed just as the nations differed; the greatest and most powerful nations had the most powerful gods, while the weaker ones were obliged to content themselves with the very off- scourings of the heavens. Each of these gods promised happiness here and hereafter to all his slaves, and threatened to eternally punish all who either disbelieved in his existence or suspected that some other god might be his superior; but to deny the existence of all gods was, and is, the crime of crimes. Redden your hands with human blood; blast by slander the fair fame of the innocent; strangle the smiling child upon its mother's knees; deceive, ruin and desert the beautiful girl who loves and trusts you, and your case is not hopeless. For all this, and for all these you may be forgiven. For all this, and for all these, that bankrupt court established by the gospel, will give you a discharge; but deny the existence of these divine ghosts, of these gods, and the sweet and tearful face of Mercy becomes livid with eternal hate. Heaven's golden gates are shut, and you, with an infinite curse ringing in your ears, with the brand of infamy upon your brow, commence your endless wanderings in the lurid gloom of hell -- an immortal vagrant -- an eternal outcast -- a deathless convict.

One of these gods, and one who demands our love, our admiration and our worship, and one who is worshiped, if mere heartless ceremony is worship, gave to his chosen people for their guidance, the following laws of war: "When thou comest nigh unto a city to fight against it, then proclaim peace unto it. And it shall be if it make thee answer of peace, and open unto thee, then it shall be that all the people that is found therein shall be tributaries unto thee, and they shall serve thee. And if it will make no peace with thee, but will make war against thee, then thou shalt besiege it. And when the Lord thy God hath delivered it into thy hands, thou shalt smite every male thereof with the edge of the sword. But the women and the little ones, and the cattle, and all that is in the city, even all the spoil thereof, shalt thou take unto thyself, and thou shalt eat the spoil of thine enemies which the Lord thy God hath given thee. Thus shalt thou do unto all the cities which are very far off from thee, which are not of the cities of these nations. But of the cities of these people which the Lord thy God doth give thee for an inheritance, thou shalt save alive nothing that breatheth."

Is it possible for man to conceive of anything more perfectly infamous? Can you believe that such directions were given by any being except an infinite fiend? Remember that the army receiving these instructions was one of invasion. Peace was offered upon condition that the people submitting should be the slaves of the invader; but if any should have the courage to defend their homes, to fight for the love of wife and child, then the sword was to spare none -- not even the prattling, dimpled babe.

And we are called upon to worship such a God; to get upon our knees and tell him that he is good, that he is merciful, that he is just, that he is love. We are asked to stifle every noble sentiment of the soul, and to trample under foot all the sweet charities of the heart. Because we refuse to stultify ourselves -- refuse to become liars -- we are denounced, hated, traduced and ostracized here, and this same god threatens to torment us in eternal fire the moment death allows him to fiercely clutch our naked helpless souls. Let the people hate, let the god threaten -- we will educate them, and we will despise and defy the god.

The book, called the Bible, is filled with passages equally horrible, unjust and atrocious. This is the book to be read in schools in order to make our children loving, kind and gentle! This is the book they wish to be recognized in our Constitution as the source of all authority and justice!

We are asked to justify these frightful passages, these infamous laws of war, because the Bible is the word of God. As a matter of fact, there never was, and there never can be, an argument even tending to prove the inspiration of any book whatever. In the absence of positive evidence, analogy and experience, argument is simply impossible, and at the very best, can amount only to a useless agitation of the air. The instant we admit that a book is too sacred to be doubted, or even reasoned about, we are mental serfs. It is infinitely absurd to suppose that a god would Address a communication to intelligent beings, and yet make it a crime, to be punished in eternal flames, for them to use their intelligence for the purpose of understanding his communication. If we have the right to use our reason, we certainly have the right to act in accordance with it, and no god can have the right to punish us for such action.

The doctrine that future happiness depends upon belief is monstrous. It is the infamy of infamies. The notion that faith in Christ is to be rewarded by an eternity of bliss, while a dependence upon reason, observation and experience merits everlasting pain, is too absurd for refutation, and can be believed only by that unhappy mixture of insanity and ignorance, called "faith." What man, who ever thinks, can believe that blood can appease God? And yet, our entire system of religion is based upon that belief. The Jews pacified Jehovah with the blood of animals, and according to the Christian system, the blood of Jesus softened the heart of God a little, and rendered possible the salvation of a fortunate few. It is hard to conceive how the human mind can give assent to such terrible ideas, or how any sane man can read the Bible and still believe in the doctrine of inspiration.

Whether the Bible is true or false, is of no consequence in comparison with the mental freedom of the race.

Salvation through slavery is worthless. Salvation from slavery is inestimable.

As long as man believes the Bible to be infallible, that book is his master. The civilization of this century is not the child of faith, but of unbelief -- the result of free thought.

All that is necessary, as it seems to me, to convince any reasonable person that the Bible is simply and purely of human invention -- of barbarian invention -- is to read it. Read it as you would any other book; think of it as you would of any other; get the bandage of reverence from your eyes; drive from your heart the phantom of fear; push from the throne of your brain the coiled form of superstition -- then read the Holy Bible, and you will be amazed that you ever, for one moment, supposed a being of infinite wisdom, goodness and purity, to be the author of such ignorance and of such atrocity.

Our ancestors not only had their god-factories, but they made devils as well. These devils were generally disgraced and fallen gods. These devils generally sympathized with man. There is in regard to them a most wonderful fact: In nearly all the theologies, mythologies and religions, the devils have been much more humane and merciful than the gods. No devil ever gave one of his generals an order to kill children and to rip open the bodies of pregnant women. Such barbarities were always ordered by the good gods. The pestilences were sent by the most merciful gods. The frightful famine, during which the dying child with pallid lips sucked the withered bosom of a dead mother, was sent by the loving gods. No devil was ever charged with such fiendish brutality.

One of these gods, according to the account, drowned an entire world with the exception of eight persons. The old, the young, the beautiful and the helpless were remorsely devoured by the shoreless sea. This, the most fearful tragedy that the imagination of ignorant priests ever conceived, was the act, not of a devil, but of a god, so-called, whom men ignorantly worship unto this day…

All these gods threatened to torment forever the souls of their enemies. Did any devil ever make so infamous a threat? The basest thing recorded of the devil, is what he did concerning Job and his family, and that was done by the express permission of one of these gods…

The first account we have of the devil is found in that purely scientific book called Genesis, and is as follows: "Now the serpent was more subtle than any beast of the field which the Lord God had made, and he said unto the woman, Yea, hath God said, Ye shall not eat of the fruit of the trees of the garden? And the woman said unto the serpent, We may eat of the fruit of the trees of the garden; but of the fruit of the tree which is in the midst of the garden God hath said, Ye shall not eat of it, neither shall ye touch it, lest ye die. And the serpent said unto the woman, Ye shall not surely die. For God doth know that in the day ye eat thereof, then your eyes shall be opened and ye shall be as gods, knowing good and evil. And when the woman saw that the tree was good for food, and that it was pleasant to the eyes, and a tree to be desired to make one wise, she took of the fruit thereof and did eat, and gave also unto her husband with her, and he did eat. * * And the Lord God said Behold the man is become as one of us, to know good and evil; and now, lest he put forth his hand, and take also of the tree of life: and eat, and live forever. Therefore the Lord God sent him forth from the Garden of Eden to till the ground from which he was taken. So he drove out the man, and he placed at the east of the Garden of Eden cherubim and a flaming sword, which turned every way to keep the way of the tree of life."

According to this account the promise of the devil was fulfilled to the very letter, Adam and Eve did not die, and they did become as gods, knowing good and evil.

The account shows, however, that the gods dreaded education and knowledge then just as they do now. The church still faithfully guards the dangerous tree of knowledge, and has exerted in all ages her utmost power to keep mankind from eating the fruit thereof. The priests have never ceased repeating the old falsehood and the old threat: "Ye shall not eat of it, neither shall ye touch it, lest ye die." From every pulpit comes the same cry, born of the same fear: "Lest they eat and become as gods, knowing good and evil." For this reason, religion hates science, faith detests reason, theology is the sworn enemy of philosophy, and the church with its flaming sword still guards the hated tree, and like its supposed founder, curses to the lowest depths the brave thinkers who eat and become as gods.

If the account given in Genesis is really true, ought we not, after all, to thank this serpent? He was the first schoolmaster, the first advocate of learning, the first enemy of ignorance, the first to whisper in human ears the sacred word liberty, the creator of ambition, the author of modesty, of inquiry, of doubt, of investigation, of progress and of civilization.

Give me the storm and tempest of thought and action, rather than the dead calm of ignorance and faith! Banish me from Eden when you will; but first let me eat of the fruit of the tree of knowledge!

Link: http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=933

0 Comments:

Post a Comment

<< Home