namoamitabhabuddhatheky21

Wednesday, February 07, 2007

Luận Về Nhân Quả - Về Sự ảnh Hưởng Của Ngòi Bút

HT Thích Chân Quang

Luận Về Nhân Quả - Về Sự ảnh Hưởng Của Ngòi Bút

(Trích truyện Bút máu của Vũ Hạnh)

Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.

Năm lên mười hai, gặp thời lọan ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hỏang, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy tòan máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:

-Máu người tanh quá!

Đọan đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về

Đến nhà, lạy cậu thưa lên:

-Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngòai lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người. Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

Người cậu giận lắm, bảo rằng:

-Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội.

Lương Sinh cúi thưa:

-Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ, binh đao là điều dứt khóat, cháu chưa dứt khóat trong người, tự thấy không dám theo đuổi.

Cậu nói:

-Hòai nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày.Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời ! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao lọan, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.

Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan.

Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ ý kén Sinh làm giai tế, Sinh sung sướng nhận lời.

Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi. Nhân Tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Từ Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy.

Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lưng muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói , lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước tới nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi tránh ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng đốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhỏen miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế bên lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:

Tiên hoa gài mộng, vấn vương đèn Phật bâng khuâng.

Đông biếc, thoáng cười tiên nữ

Rêu xanh, ngẩn lối Lưu thần

Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gío

Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân

Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi dạt ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thóang thấy kêu lên:

- Có người ám hại tiểu thư

Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn đầy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống, không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời đính chính nhưng lính xông vào trói chàng

Đám đông có tiếng thì thào

- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy.

- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.

- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc.

Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi trình lên tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen này. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dáng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được, Quan nói:

-Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẻo gió đưa, ngươi hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.

Đọan truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Độ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân. Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia tòan là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.

Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẻ khác nhau, miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc “dân chi phụ mẫu” mà xưa nay Sinh thườngtỏ ý rẻ khinh.

Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, mực thơm, bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh cảm thấy không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hòang anh hót ngòai vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn, Sinh hốt hỏang tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới, Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên …Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc, nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim…Khiếp đảm Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác lọan. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát, Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy, đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp, quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh…Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thóat.

Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trịnh, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hỏi lâu rồi nói:

- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên.Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hòai nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng lọai, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn. Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Sóat lại cho mau, sóat lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào.

Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy tòan là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâu…bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hòang. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, về người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi tóat ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.

Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thóang. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm một mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:

- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?

Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

- Người nằm dưới mộ không phải là bà con quen thuộc của tôi

Sinh nghĩ: “Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?” Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hòai nghi:

- Ông từ đâu mà đến đây?

Tôi ở chốn xa , nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác

Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căm hờn:

- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa há được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đâu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng : “Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài”. Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây đành để nuôi lòai cỏ dại mà thôi.

Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi.

- Chẳng hay bác có biết…danh sĩ ấy tên gì không?

Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong tư chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có ! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu ! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọa. Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: “Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người” Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: “ Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vin vào mà che lấp sự thật. Đừng óan hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó!”

Người nông phu dừng lại nghẹn ngào rồi tiếp:

Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!

Đọan gục đầu trước mồ khóc than thảm thiết.

Sinh cũng gục sụp xuống òa tiếng khóc theo.

Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

Câu chuyện này có nhiều điểm đáng nói. Từ buổi ban đầu Sinh đã hoài nghi giữa ranh giới của thiện ác, không nghiên cứu để minh định rõ ràng chơn ngụy của cuộc đời. Tuy được túc duyên làm người giàu sang đẹp đẽ là do đời trước tâm hồn rộng lượng chính nhân quân tử, nhưng đời này say sưa hoa nguyệt thi ca, trôi theo cảm xúc của trái tim mà quên tuyên dương đạo nghĩa. Những cảm hứng nghệ sĩ đã nung nấu Sinh trở thành kẻ si tình bồng bột và trí tuệ khuất lấp, không nhận ra sự lợi dụng của quan Tổng trấn man trá ác độc kia. Tuy không ác tâm, nhưng trong mê mờ bởi tình si men rượu, Sinh đã dùng ngòi bút giết hại bao nhiêu người, gây biệt ly đau thương cho bao nhiêu gia đình khốn khổ. Cái chất chân chính nhân nghĩa trong Sinh không suy giảm, nghĩa là đức không thiếu, nhưng tác hại nặng nề cho nhiều người nên phước đã tiêu tan. Ngòi bút của Sinh đã giết hại nhiều hơn lưỡi gươm họ Lã. Tội lỗi oan khiên ngút trời này đã khiến Sinh tức khắc lâm bệnh và sự óan hờn căm hận bi thiết kia đã cảm ứng dòng mực thành dòng máu đỏ tươi.

Chúng ta chưa đề cập đến những kẻ biết là sai, nhưng vì quyền lợi địa vị mà vẫn dùng ngòi bút gây chia rẽ, đau khổ cho đồng lọai, chúng ta chỉ đề cập trường hợp Sinh không biết mình sai, lầm tưởng quan Tổng Trấn là cao cả xứng đáng để ca ngợi đến nổi gây nên máu đổ đầu rơi. Nhưng tại sao Sinh không nhận ra con người của viên quan họ Lý trong khi Sinh vốn thông minh đĩnh ngộ? Có một lý do nổi bật mà đạo Phật thường nhắc nhở: “Tình sinh, trí cách”. Khi tình cảm che phủ thì trí tuệ bị khuất lấp. Nét đẹp của Lý tiểu thơ làm Sinh chao đảo, dễ dàng bỏ qua vẻ kiêu hãnh còn in đậm nơi ánh mắt dáng nhìn. Rồi cộng với rượu nồng thịt béo làm Sinh say sưa túy lúy, sơ sài quan sát cảnh đồng ruộng khô khan, dân tình bạc nhược. Sự ca ngợi kính trọng giả tạo của quan Tổng trấn làm Sinh sướng vui ngây ngất. Những khóai lạc của ngũ dục dìm Sinh trong hỗn độn mê mờ.

Quả thật, sự thụ hưởng khoái lạc trần gian luôn chực chờ xô đẩy con người vào tội lỗi và khổ đau. Hạnh phúc tạm bợ nóng bỏng mà con người tìm cầu nơi ngũ dục thì nguy hiểm và mong manh, xưa nay biết bao tội ác đã xảy ra chỉ vì tình, vì tiền, vì danh vọng. Chưa cần nói niềm vui của sự giải thóat thanh khiết như thế nào, nhưng trước hết nó không còn tội lỗi và bất an. Sinh vốn không phải người xấu, thế mà giai nhân, tiệc rượu và lời khen đã đưa Sinh đến oan nghiệt phủ phàng. Đức Phật chế năm giới để hạn chế bớt sự thụ hưởng sa đọa của người cư sĩ, tức là hạn chế tội lỗi và bất an chọ họ. Rượu đã là thảm cảnh cho vô số những gia đình xưa nay. Nhiều nước trên thế giới đang tìm cách đấu tranh chống nạn nghiện rượu. Nước mắt của người vợ, của những đứa con đã đầy ắp trong cuộc đời khi mà người chồng, người cha của họ là tay bợm nhậu say sưa.

Đời nay cũng vậy, nhiều kẻ trí thức cũng vì không nhận định kỹ đúng sai thiện ác, rồi vì sự mua chuộc bởi tình, tiền và địa vị đã dùng ngòi bút để gieo rắc sai lầm cho nhiều thế hệ mai sau. Những ngòi bút của họ đã là giông bão quay cuồng, thúc giục chiến tranh thù hận, đã là thuốc độc ghê gớm, giết chết nghĩa nhân thiện lạc, đã là đêm tối mịt mờ che phủ lương tri nhân sinh. Họ không dùng ngòi bút để kêu gọi thương yêu thông cảm giữa con người, để giải tỏa chia cách thù óan giữa con người với con người, để đề cao sự thanh khiết an tịnh của tâm hồn; trái lại, ngòi bút của họ đã viết lên thù hận, tham lam, đã đào ra hố sâu chia rẽ, đã khuấy động dục vọng ái nhiễm vào lòng muôn người. Những kẻ dại khờ tin theo họ đều phải đi vào nơi tối tăm đau khổ. Người cậu của Sinh có cái nhìn minh triết đã thấy được nguy hiểm và tội lỗi của ngòi bút từ ban đầu và cũng chính ông gợi ý giúp Sinh tìm ra nguyên nhân của ngòi bút máu về sau. Ông đã kết tội văn chương chồng chất hơn ngàn dãy núi, điều này không ngoa. Quả thật, lưỡi gươm giết chết một người, kéo theo sự đau đớn của một gia đình, một dòng họ. Nhưng một cuốn sách tà kiến phổ biến ra là kéo theo sự đọa lạc tâm hồn của vô số người hôm nay và mai sau, và chính sự đọa lạc tâm hồn sẽ làm họ và thân quyến họ đau đớn nhiều hơn thế nữa.

Trường hợp của Sinh chỉ là gây nên cảnh chết chóc máu đổ thịt rơi, ở những trường hợp khác ngòi bút dẫn dắt mọi người đi ngược lại chân lý mới là nguy hiểm gấp bội lần. Nếu bị giết, họ chỉ đau đớn một lần. Nhưng nếu đi ngược lại chân lý của từ bi, trí tuệ, họ sẽ phải chịu đau đớn trăm nghìn lần sau nữa.

Một cuốn sách, một bộ phim, khích động ái tình dục vọng làm hoang mang xao xuyến tâm hồn bao người, tội lỗi của tác giả không thể đếm xuể. Ngòai những sự đền trả ở địa ngục và súc sinh, nếu được làm người, họ sẽ là người tâm thần xao động bất an và dục tính quá độ; rồi dục dục tính quá độ lại đưa họ trở về đọa xứ.

Một tác phẩm, một chủ thuyết khích động chiến tranh, phủ nhận nghiệp báo, gieo rắc ác tâm cho bao nhiêu lớp người qua các thế hệ, phế bỏ sự bố thí, phát sinh sự bỏn xẻn. Tội lỗi của tác giả vực sâu núi cao không chứa hết. Họ phải đền trả tội nghiệp này, nhưng đáng thương cho những người theo họ cũng chìm vào cảnh khổ.

Người cầm viết phải thấy trách nhiệm nặng như núi của mình, trước hết phải tâm nguyện đem ánh sáng của tình thương và chân lý thắp sáng giữa nhân sinh, quyết không vì tiền bạc, địa vị mà nói sai lẽ phải, cái gì là đạo đức chân thật, cái gì là là hạnh phúc vĩnh cửu, đó là những điều cần phải tuyên dương với trọn tâm huyết và lòng quả cảm của mình. Nếu trọn đời bạn đã thắp sáng ngọn lửa thiêng liêng của lẽ phải, sự chờ đợi dành cho bạn là phúc lạc vĩ đại lâu dài mai sau.

Thường thì chúng ta tìm hạnh phúc trong vật chất, trong quan hệ tình cảm với mọi người, trong vinh quang của danh vọng, chúng ta chưa bao giờ ngờ rằng có một hạnh phúc chân thật, cao cả, thanh khiết, vĩ đại hơn mọi hạnh phúc kia. Đó là sự an định của tậm hồn, đó là sự lắng sâu trong Thiền định. Tất cả những niềm vui thông thường chỉ bắt nguồn từ suy tư, xao động và kéo theo sau nó là lo lắng bất an, còn hạnh phúc chân thật thì đơn giản và an tĩnh. Tâm không suy nghĩ thênh thang như mây trời, trong vắt như hư không, nhẹ nhàng như gió thỏang, an lạc như vô biên. Từ tâm không suy nghĩ này phát sinh tình thương người rất quãng đại từ ái, không phải khô khan như cây đá, phát minh trí tuệ nhận thức sáng suốt rõ ràng, không phải ngu ngơ như rong rêu. Tâm không xao động đó là hạnh phúc cần phải tuyên dương, đó là đạo đức cần phải phổ biến, đó là chân lý cần phải truyền đạt. Những triết thuyết cực đoan một chiều đưa đến bất an, thù hận thì không thể nào so sánh

Hầu hết nguyên nhân của tội lỗi đều được gây nên bởi dục vọng. Con người vì dục vọng riêng mình nên mới tác hại cho tha nhân. Trường hợp của Sinh không phải vì mong cầu dục vọng riêng mình, nhưng rõ ràng dục vọng vô tình của nữ sắc, rượu thịt, lời khen đã đưa Sinh vào oan trái. Muốn có sức tỉnh táo sáng suốt nhận định đúng lẽ phải, chúng ta cần có một cuộc sống thanh khiết đơn giản, đừng để dục vọng chi phối. Thóat được gọng kềm của dục vọng, có được nội tâm an tĩnh thênh thang, ngòi bút của chúng ta sẽ viết thành thiên trường ca của lẽ phải, làm tươi mát tâm hồn của muôn người vốn bị thiêu đốt bởi tham lam thù hận. Tội của ngòi bút rất trầm trọng, nhưng công của ngòi bút cũng rất lớn lao. Để có được công đức to lớn này, người cầm viết phải tìm thấy lẽ phải và dâng cả cuộc đời mình cho lẽ phải đó. Sức sống của ngòi bút ở tại sức sống của tác giả. Người đã sống đựơc với lẽ phải, những lời viết ra sẽ có sức mạnh tác động cho người đọc rất nhiều. Còn hạng người chưa từng rèn luyện mình trong mỗi ý nghĩ sâu kín, chưa thanh lọc mình trong mỗi hành vi nhỏ nhặt, văn của họ chưa có sức mạnh chuyển hóa tâm hồn của người đọc. Công đức của văn chương rất lớn, nhưng muốn thực hiện được công đức này, tác giả phải dọn tâm hồn mình trong an nhiên và cao thượng. Đời sống của Victor Hugo đã kết tinh thành Les Misérables. Cuộc sống giải thóat của Ksishnasmurti mới tạo thành The First And Last Freedom, Commentary On Living.

Chính cuộc sống của chúng ta sẽ làm cho ngòi bút chúng ta có công hay có tội.

http://www.thegioi-song.com/luanvenhanqua.htm

0 Comments:

Post a Comment

<< Home